Y đạo thần truyền: Vì sao Biển Thước, Hoa Đà có thể dùng thiên mục trị bệnh?

01/06/2023 - Lượt xem: 757

Trung y của Trung Quốc truyền thống bắt nguồn từ “Y đạo” do Hoàng Đế truyền thụ cách đây năm nghìn năm.

(Ảnh minh hoạ)

Trong thiên mở đầu “Thượng cổ thiên chân luận thiên đệ nhất” của “Hoàng Đế Nội Kinh”, cuốn sách kinh điển của Trung y, không giảng làm thế nào để trị bệnh mà là làm thế nào để thuận theo đạo. Hơn nữa, đặc biệt còn giảng về “Chân nhân, Chí nhân, Thánh nhân, Hiền nhân”. “Chân nhân” được đề cập đến chính là Thần. Thiên mở đầu của kinh điển y học giảng về Thần, về Đạo là đang muốn nói Trung y chính là “Y học thần truyền”.

Đại y học gia Tôn Tư Mạc trong phần mở đầu kiệt tác nổi tiếng “Thiên kim yếu phương” của mình nói rõ về việc sáng tạo và truyền thừa của y đạo. Tôn Tư Mạc nói: “Hoàng Đế phụng mệnh, sáng chế ra cửu châm, cùng với phương sĩ Kỳ Bá, Lôi Công đàm luận, bàn luận về kinh mạch, ngoài ra giải đáp các vấn đề khúc mắc, tường tận nghĩa lý, được cho là kinh điển, nên hậu thế dựa đó mà thông thuận học theo…. Vào thời Xuân Thu, lương y có Y Hòa , Y Hoãn, vào thời Lục Quốc thì có Biển Thước, thời Hán có Thương Công, Trọng Cảnh, thời Ngụy có Hoa Đà, đều dụng công tìm tòi nghiên cứu thâm sâu, thấu hiểu được nghĩa lý”.

Những lời này của Tôn Tư Mạc đã khẳng định Hoàng Đế, Kỳ Bá và Lôi Công là người sáng lập ra y đạo, những người truyền thừa thế hệ sau có Y Hòa, Y Hoãn thời Xuân Thu, Biển Thước thời Chiến Quốc, Thương Công, Trương Trọng Cảnh và Hoa Đà thời Hán. 

Y đạo bắt nguồn từ “Thượng đế”, sau đó truyền lại cho Hoàng Đế

Trong thiên “Tố vấn ‧ Lục tiết tàng tượng luận” của Hoàng Đế Nội Kinh có viết: “Hoàng Đế hỏi rằng: Trò được nghe cái tiết ‘sáu sáu’ và cái số ‘chín chín’ rồi. Trên kia phu tử nói: ‘tích khí doanh nhuận’. Vậy chẳng hay thế nào là khí?”. Kỳ Bá nói: “Đây là bí mật của Thượng Đế, được Tiên sư truyền lại”. “Thượng Đế” ở đây chính là chỉ vua của Thiên giới. Trong tín ngưỡng Đạo giáo của Trung Quốc, chúng ta có thể bắt gặp “miếu Thượng Đế”, lễ bái “Huyền Thiên Thượng Đế”. Đó chính “Thần”.

Kỳ Bá là thầy của Hoàng Đế, Hoàng Đế gọi ông là Thiên sư, Kỳ Bá nhiều lần đề cập tới người thầy của mình (Tiên sư), và theo Tiên sư nói rằng “Y đạo” có nguồn gốc từ “Thượng đế”; vì vậy sự truyền thừa “y đạo” là do Thượng đế truyền cho Tiên sư, Tiên sư lại truyền cho Kỳ Bá, Kỳ Bá lại truyền cho Hoàng Đế. 

“Hoàng Đế Nội Kinh” được chia thành hai phần “Tố Vấn” và “Linh khu”. Hầu hết trong 112 thiên là những hỏi đáp giữa Hoàng Đế và Kỳ Bá.

Bản gốc Hoàng Đế Nội Kinh được chỉnh lưu lại (ảnh Epoch Times).

Hoàng Đế đã truyền y đạo cho Lôi Công, đây là nguồn gốc của Trung y của hậu thế sau này.

Tên gọi “Y đạo” lần đầu tiên xuất hiện trong “Tố vấn – Trứ chí giáo luận”, Hoàng Đế hỏi Lôi Công liệu đã thông hiểu y đạo chưa? Lôi Công trả lời rằng có thể đọc thuộc lòng cũng có thể hiểu rõ đôi chút, nhưng không thể thấu hiểu thông suốt. Hoàng Đế nói với Lôi Công rằng y đạo có thể “Trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, giữa biết chuyện người”, và truyền dạy cho Lôi Công y thuật.

Hoàng Đế nói: “Thật tốt, những thứ này không mất đi, đều là âm dương, trong ngoài, cao thấp tương ứng, có thể trong Đạo mà trên biết thiên văn, dưới biết địa lý, giữa biết chuyện người, có thể lâu dài, có thể dạy cho dân chúng, không có điều nghi ngờ. Phần luận của Y đạo, có thể truyền cho hậu thế, có thể xem là báu vật”. Lôi Công đáp rằng: “Xin nhận chỉ dạy, ngâm tụng để thấu hiểu”.

Sau đó, Hoàng Đế đã truyền “Y đạo” cho Lôi Công, nghi thức truyền thừa rất đặc biệt, trang nghiêm, long trọng, và có nghi thức “cắt máu ăn thề”.

Nghi thức truyền thừa y đạo trang nghiêm, long trọng

Trong thiên “Linh khu ‧ Cấm phục” trong “Hoàng Đế nội kinh” ghi lại chi tiết quá trình truyền thừa “Y đạo” của Hoàng Đế.

Hoàng Đế nói: “Thật là một câu hỏi khéo thay! Đây là vấn đề mà bậc Tiên sư cấm, chỉ truyền ra một cách riêng tư, cần phải cắt tay uống máu ăn thề (mới truyền được), nay đệ tử muốn đắc được, tại sao không lo đến việc trai giới?”

Lôi Công lạy hai lạy rồi đứng lên tâu rằng: “Xin nghe theo mệnh của thầy về việc này”. Nói xong, Lôi Công bèn trai và giới trong 3 ngày, rồi tâu với Hoàng Đế: “Dám xin hỏi thầy, hôm nay là ngày chính Dương, đệ tử mong nhận được sự thề nguyền”. Hoàng Đế bèn cùng với Lôi Công đi vào trai thất, cắt tay uống máu ăn thề. Hoàng Đế đích thân khấn rằng: “Ngày nay là ngày chính Dương, uống máu để truyền phương, nếu ai dám phản bội lời thề, sẽ bị tai ương”. Lôi Công lạy 2 lạy nói: “Đệ tử xin thọ nhận”. Hoàng Đế tay trái nắm lấy tay của Lôi Công, tay phải trao sách, nói: “Nên thận trọng! Nên thận trọng! Ta sẽ giảng cho trò”.

Tranh vẽ Hoàng Đế và Lôi Công (ảnh Chánh Kiến).

Năm nghìn năm trước, khi Hoàng Đế truyền thụ “Y Đạo” cho đệ tử Lôi Công, đã tiến hành một nghi thức truyền thừa rất đặc biệt, vô cùng long trọng trang nghiêm. Đệ tử Lôi Công phải cắt tay uống máu ăn thề, Hoàng Đế cũng phải dâng hương để cầu xin “Thượng Đế” (Thần).

Bởi vì Thần là người sáng tạo ra “Y Đạo”, nên trước khi tiến hành truyền thừa “Y Đạo” phải trai giới ba ngày, để thể hiện sự cung kính. Hơn nữa còn phải chọn ngày chính dương để lập ra lời thề, chọn lúc chính ngọ, dương khí cực thịnh để cử hành nghi thức trang nghiêm này.

“Chúc” chính là nghi thức dâng hương cầu khấn Thần Phật. Khi truyền thừa “Y Đạo Thần truyền” cho đệ tử Lôi Công, Hoàng Đế phải cầu khẩn người sáng tạo “Y Đạo” là “Thượng Đế”, xin phép và bày tỏ sự tôn kính. Đệ tử Lôi Công cũng phải cắt máu cánh tay ăn thề, nếu vi phạm lời thề, sẽ bị Trời phạt. Ở phần cuối cùng của nghi thức, Hoàng Đế nói với Lôi Công rằng: “Nên thận trọng! Nên thận trọng! Ta sẽ giảng cho trò”.

Thần truyền thụ y thuật cho Biển Thước

Sau khi Hoàng Đế truyền thụ “Y Đạo” cho Lôi Công, kinh qua 2500 năm, truyền đến Biển Thước ở thời Chiến quốc, rồi lại truyền cho Hoa Đà vào những năm cuối thời Đông Hán (cách nay 1800 năm). Biển Thước và Hoa Đà đều được xưng tụng là “Thần y”. Cả hai người đều có y thuật vô cùng cao thâm, có thể cách tường khán vật, thấu thị nhân thể, ngoài ra còn có thể phẫu thuật bằng dao. Họ có thể làm được điều này bởi cả hai người đều là đệ tử chân truyền của “y học Thần truyền” (truyền thừa của Thượng Đế và Hoàng Đế).

Trong “Sử ký – Biển Thước liệt truyện” có chép lại một câu chuyện như thế này. Khi còn trẻ, Biển Thước làm việc trong một quán trọ. Có một vị khách là Trường Tang Quân thường xuyên đến quán trọ này, mỗi lần đến, Biển Thước đều đối xử với ông vô cùng cung kính. Trường Tang Quân lui tới đó hơn 10 năm, đã quan sát phẩm hạnh đạo đức của Biển Thước trong một thời gian dài.

Một hôm Trường Tang Quân lấy từ trong ngực ra một bọc thuốc trao cho Biển Thước, bảo ông dùng nước chưa chạm đất sắc thuốc uống, sau 30 ngày có thể thấy những vật bí ẩn. Đồng thời đem tất cả thư tịch các phương thuốc bí truyền trao cho Biển Thước.

Chân dung danh y Biển Thước (ảnh dẫn qua 24hthongtin).

Biển Thước chiểu theo lời dặn uống thuốc 30 ngày thì “nhìn thấy người sau bức tường. Với con mắt như thế xem bệnh, nhìn thấy hết các chứng bệnh trong ngũ tạng, do đó nổi tiếng xem mạch khám bệnh”. Lúc này Biển Thước có thể nhìn thấy người bên kia bức tường, đã có công năng thấu thị vật thể. Khi dùng công năng này khám bệnh, có thể nhìn thấy lục phủ ngũ tạng của con người, đồng thời biết được tạng phủ nào có bệnh.

Sau khi Trường Tang Quân dặn dò hết liền bỗng nhiên biến mất, Biển Thước mới biết đó không phải là người thường. Từ đó Biển Thước bắt đầu hành nghề y thuật ở nước Tề và nước Triệu, nổi tiếng xem mạch khám bệnh. Do đó có thể nói Biển Thước là “Tổ sư gia” của mạch học của Trung y. Câu chuyện này cho thấy, y thuật của Biển Thước là do Thần tiên Trường Tang Quân truyền thụ. Trường Tang Quân truyền thụ cho Biển Thước là vì Biển Thước là người có đạo đức cao thượng.

Các đời “Thần y” đều có “kỹ thuật thần kỳ”

Trong quá trình hành nghề y, các danh y thời cổ đại đã thể hiện ra rất nhiều “kỹ thuật thần kỳ”, khiến người đời sau vô cùng khâm phục và ngạc nhiên. Mà những kỹ thuật thần kỳ này chúng ta không thể có được khi đọc các sách Trung y dược học ngày nay hay những y thư cổ xưa. 

Năng lực thấu thị nhân thể của Biển Thước

Trong “Sử ký – Biển Thước Thương Công liệt truyện” của Tư Mã Thiên có ghi chép, Biển Thước đi qua nước Quắc thấy đang cử hành tang lễ, ông hỏi Trung Thứ Tử và được biết Thái tử nước Quắc ‘bất tỉnh nhân sự và qua đời’, sắp sửa khâm liệm. Biển Thước đứng trước cổng cung điện nước Quắc khẳng định đó là chết giả, có thể giúp Thái tử cải tử hoàn sinh. Trung Thứ Tử không tin, Biển Thước nói thêm: “Hãy thử cho người kiểm tra Thái tử, khi nghe thấy tai Thái tử kêu, mũi căng thì lần theo hai đùi đến chỗ kín thì vẫn còn ấm”. Người ta kiểm tra, quả nhiên là như vậy, và cuối cùng Thái tử đã được Biển Thước cứu sống. 

Khả năng thấu thị nhân thể của Biển Thước không chỉ là thần tích của xã hội đương thời lúc đó, mà còn khiến con người hiện đại vô cùng kinh ngạc.

Hoa Đà dùng “mắt thần” để thực hiện thủ thuật ngoại khoa

Nếu bàn về ngành ngoại khoa của Trung y, Hoa Đà có thể được xưng là ông tổ. Trong “Tam Quốc Chí” và “Hậu Hán Thư” đều ghi chép lại y thuật thần kỳ của ông khi làm phẫu thuật vùng bụng.

Giống như Biển Thước, Hoa Đà có công năng thấu thị nhân thể mà người đời sau gọi là “thiên mục”. Sau khi khám bệnh, Hoa Đà biết được trong bụng người bệnh có khối u, liền dùng ma phí tán để gây mê. Sau khi người bệnh không còn cảm giác, liền tiến hành thủ thuật mở bụng, tìm khối u rồi lấy dao cắt đi, sau đó khâu lại và bôi cao thần bí. Một tháng sau người bệnh hoàn toàn bình phục.

Chân dung của Hoa Đà (ảnh TouTiao).

Trong “Tam Quốc diễn nghĩa” có rất nhiều câu chuyện về Hoa Đà, như câu chuyện Hoa Đà cạo xương để trị thương cho Quan Vũ, hay Hoa Đà nhìn thấy khối u trong đầu của Tào Tháo…

Công năng đoán trước tương lai của Trương Trọng Cảnh

Theo ghi chép trong sách sử, Trương Trọng Cảnh từng gặp quan Thị trung là Vương Trọng Tuyên. Khi đó dù mới 20 tuổi nhưng Trương Trọng Cảnh đã có hiểu biết thâm sâu về Y Đạo, ông nói với quan thị trung: trong mình ông có bệnh, đến năm 40 tuổi thì lông mày sẽ rụng hết. Sau khi lông mày rụng được nửa năm, sẽ chết. Uống Ngũ thạch thang sẽ khỏi bệnh, nói rồi liền đưa thuốc cho vị quan.

Vương Trọng Tuyên có ý không hài lòng lời nói của Trọng Cảnh, tuy nhận đơn thuốc mà không uống. Sau đó 3 ngày Trọng Cảnh lại gặp Trọng Tuyên. Trọng Cảnh hỏi “Ông đã uống thuốc chưa?”. Trọng Tuyên đáp: “đã uống rồi”. Trọng Cảnh nói: “Sắc khí của ông không biểu hiện là đã uống thuốc, sao lại coi rẻ tính mệnh của mình như vậy?”… Trọng Tuyên không trả lời. Hai mươi năm sau, quả nhiên Trọng Tuyên tự nhiên rụng hết lông mày, 117 ngày sau thì chết. Đúng như dự đoán của Trương Trọng Cảnh.

Văn hóa Thần truyền, tạo nên Thần y

Vào thời cổ đại, Thần y khi trị bệnh đều có Thần kỹ, là bởi vì Trung y chính văn hóa Thần truyền. Điều này thể hiện chủ yếu ở hai phương diện: y lý (văn tự) hữu hình của Y Đạo được Thần (Thượng Đế) truyền lại và nội hàm vô hình của Y Đạo thể hiện ở “Thần kỹ” của tu luyện (công năng đặc dị). Ngay trong “Hoàng Đế nội kinh” cũng có phần bàn về “tu luyện”.

Những y học gia vĩ đại trong lịch sử đều lấy đạo đức làm căn bản, lấy “Hoàng Đế nội kinh” làm tâm pháp, tĩnh tâm tu trì, sau khi đạt đến cảnh giới thiên nhân hợp nhất, tâm không còn tạp niệm, thì có thể khai huệ, khai ngộ và khai thiên mục. Đến lúc này, họ đã có thể ảnh hưởng đến sinh tử của con người, đạt tới cảnh giới “chưa trị bệnh đã khỏi”, “thấy bệnh biết căn nguyên”, trở thành một “Thần y” chân chính.

Nguồn: DKN